Hàng ngày khỏe mạnh, nam nhi nên không ngừng tự cường. 1 ngọn bút không rõ ràng trong lịch sử, điểm phá bí mật của hư không,vượt qua bức tường chắn của võ hiệp cùng tiên hiệp, Vẽ ra bối cảnh tiên phàm quy mô chưa từng có, tận cùng sách là thiên địa mênh mông điểm điểm hồng trần...... tay thợ săn nhỏ tuổi Lý Nhạc Phàm, nhân bị hãm hại mà sung quân, đồng thời do cừu hận mà bước chân vào đường giang hồ...... Thiếu niên tóc trắng, vì thất tình nhập võ, trong 1 lần ở gần ranh giới của cái chết cảm ngộ được sinh mạng, sau tự mình sáng tạo ra khoáng thế kì điểnThất Tình Thiên Thư,Bổn thư lấy tình tải đạo, hi vọng đọc giả có thể cảm ngộ...... Thiếu niên nhìn dòng sông mùa xuân đi xa, độc hành trên đường xa xăm là tấm lòng
Hàng ngày khỏe mạnh, nam nhi nên không ngừng tự cường. 1 ngọn bút không rõ ràng trong lịch sử, điểm phá bí mật của hư không,vượt qua bức tường chắn của võ hiệp cùng tiên hiệp, Vẽ ra bối cảnh tiên phàm quy mô chưa từng có, tận cùng sách là thiên địa mênh mông điểm điểm hồng trần...... tay thợ săn nhỏ tuổi Lý Nhạc Phàm, nhân bị hãm hại mà sung quân, đồng thời do cừu hận mà bước chân vào đường giang hồ...... Thiếu niên tóc trắng, vì thất tình nhập võ, trong 1 lần ở gần ranh giới của cái chết cảm ngộ được sinh mạng, sau tự mình sáng tạo ra khoáng thế kì điểnThất Tình Thiên Thư,Bổn thư lấy tình tải đạo, hi vọng đọc giả có thể cảm ngộ...... Thiếu niên nhìn dòng sông mùa xuân đi xa, độc hành trên đường xa xăm là tấm lòng
Khám phá vịnh Hạ Long, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ vĩ, tráng lệ của nhiều hang động. Ít ai biết rằng, đằng sau mỗi hang động đó lại là truyền thuyết vịnh Hạ Long và những câu chuyên riêng. Sau đây, hãy cùng tìm hiểu câu chuyện phía sau những hang động nổi tiếng trên vịnh Hạ Long nhé.
Hang Đầu Gỗ là một trong những hang động lớn và đẹp nhất ở vịnh Hạ Long. Hang có tên gọi này bởi theo truyền thuyết, ngày xưa có một người dân ở đây rất giỏi làm thuyền. Một lần, ông ta được một người già giao cho một khúc gỗ lớn và bảo ông ta chế tác thành một chiếc thuyền. Người già nói rằng khúc gỗ này có phép thuật, nếu ông ta làm xong chiếc thuyền trong ba ngày thì sẽ được giữ lại, còn nếu không thì phải trả lại cho người già. Ông ta nhận lời và bắt tay vào làm việc. Tuy nhiên, dù ông ta cố gắng hết sức nhưng khúc gỗ cứ bị co rút và biến dạng liên tục, khiến cho ông ta không thể hoàn thành chiếc thuyền. Đến ngày thứ ba, người già quay lại và nhận lại khúc gỗ. Ông ta nói rằng khúc gỗ này là của Thần Rồng và chỉ có Thần mới có thể chế tác được. Người già mang khúc gỗ đi và để lại ở hang Đầu Gỗ. Từ đó, hang có tên gọi như hiện nay.
Truyền thuyết này được cho là có nguồn gốc từ sự kỳ diệu của thiên nhiên, khiến cho con người không thể hiểu được. Truyền thuyết này cũng phản ánh sự sáng tạo và giàu trí tưởng tượng của người Việt Nam. Truyền thuyết này đã được nhiều du khách quan tâm và tìm hiểu khi đến với hang Đầu Gỗ.
Xem thêm: Hang Đầu Gỗ – động của các kỳ quan
Hang Trinh Nữ và hang Trống nằm trên dãy đảo Bồ Hòn cùng với hệ thống động Sửng Sốt, hồ Động Tiên, Hang Luồn… Hai hang động này gắn với một câu chuyện tình đẹp nhưng vô cùng bi thương, được nhiều du khách tò mò khám phá khi tới đây.
Theo truyền thuyết kể lại rằng, ngày xưa, có một người con gái vạn chài xinh đẹp. Cô yêu một chàng trai là con của một gia đình giàu có ở Vân Đồn. Tuy nhiên, gia đình chàng không đồng ý cho họ kết hôn vì sự khác biệt về địa vị. Họ ép chàng phải cưới một cô gái khác. Ngày cưới, chàng đã bỏ trốn và tìm cách đến với cô gái mình yêu. Họ đã cùng nhau lên một chiếc thuyền nhỏ và ra khơi để trốn chạy. Tuy nhiên, họ đã bị gia đình chàng và những người giặc biển truy đuổi. Trong lúc hoảng loạn, cô gái đã cầu xin Thần Rồng giúp đỡ. Thần Rồng đã biến cô thành một tảng đá hình người nằm trong hang. Chàng trai thấy vậy đã buồn bã và tự sát bằng cách nhảy xuống biển. Thần Rồng cũng biến chàng thành một tảng đá hình người đứng trong hang đối diện. Từ đó, hai hang được gọi là hang Trinh Nữ và hang Trống.
Những truyền thuyết vịnh Hạ Long không chỉ là những câu chuyện dân gian hay mà còn là những minh chứng cho sự sáng tạo và giàu trí tưởng tượng của người Việt Nam. Những truyền thuyết ấy đã tạo nên một nét riêng biệt cho vịnh Hạ Long, làm cho nó trở thành một điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến Việt Nam. Khám phá vịnh Hạ Long, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng những quang cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn được nghe những câu chuyện hấp dẫn và ý nghĩa về lịch sử, văn hóa và tâm linh của dân tộc Việt Nam.
Bất cứ khi nào nhắc đến Vịnh Hạ Long, hình ảnh đầu tiên hiện ra...
Nổi bật giữa những hang động quyến rũ khác ở vịnh Hạ Long, hang Đầu...
Vịnh Hạ Longlà một trong những kỳ quan thiên nhiên của thế giới, nổi tiếng...
Được biết đến là một điểm đến du lịch nổi tiếng tại Việt Nam, Vịnh...
Động tam cung là một trong những hang động đẹp nhất ở vịnh Hạ Long, nơi...
Vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới độc đáo, không chỉ lưu...
Trong lịch sử dân tộc ta, có nhiều thời kỳ võ công oanh liệt gắn liền với sự phát triển rực rỡ của văn học nghệ thuật. Thời Lý - Trần; thời kháng chiến chống quân Minh; thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ cứu nước là những thời kỳ như vậy.
Những bài thơ như Nam quốc sơn hà, những câu thơ như “Người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện Nguyên Phong” (niên hiệu vua Trần Thái Tông, gắn với chiến thắng Nguyên Mông tần thứ nhất 1258); “Xã tắc hai phen chôn ngựa đá/ Non sông nghìn thuở vững âu vàng” đã vượt qua mọi thử thách của thời gian. Văn học, từ chỗ phản ánh hiện thực đời sống; đã trở thành giá trị tinh thần, hào khí, cốt cách của dân tộc.
Đến nay, 2017, hòa bình đã được lập lại 42 năm. Nhưng ký ức chiến tranh vẫn còn tươi nguyên, nhất là với những chiến sĩ đã trực tiếp cầm súng. Họ không chỉ xả thân vì độc lập dân tộc mà còn là những nhà văn trung úy, những nhà văn binh nhì đã và đang làm nên những chiến tích mới trong văn học nghệ thuật. Đã có hàng trăm, hàng nghìn tiểu thuyết đồ sộ, đã có tủ sách “Mãi mãi tuổi hai mươi” rực lửa, chan chứa giá trị nhân văn khiến cả thế giới kinh ngạc, khâm phục. Song vẫn chưa hết. Những hồi ức binh nhì tiếp tục ra đời.
“Quảng Trị 1972” của Nguyễn Quang Vinh là một cuốn sách như vậy, cuốn sách hấp dẫn từ đầu chí cuối, với những chi tiết hết sức sống động và chân thực về chiến tranh, tôi nghĩ rằng, không phải người cầm súng, không thể viết được. Nguyễn Quang Vinh, vốn là học sinh Trường Phổ thông Công nghiệp Hai Bà Trưng, hăng hái ra trận năm 1972, như tất cả mọi thanh niên thời ấy, với tâm thế “Chiến đấu là cao quý nhất. Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù” (Nhật ký Lê Mã Lương). Chân dung người chiến sĩ Giải phóng quân hồi ấy được Nguyễn Quang Vinh vẽ ra thật lãng mạn: “Có đoạn đi bên sườn núi, nhìn ra phía đông xuyên qua tán lá rừng, có thể nhìn thấy biển xa tít tắp. Rồi những cồn cát trắng nhỏ xíu, đồng ruộng, làng mạc xanh mờ và một dòng sông bạc đang uốn khúc, y như trên máy bay nhìn xuống. Tự nhiên lúc đó tôi thấy tự hào vô cùng. Dầu sao đôi chân của tôi cũng đã in dấu trong rừng Trường Sơn, in dấu lên con đường lớn của dân tộc, và lòng tôi cứ ngân lên hai câu thơ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai"... Nhưng rồi thực tế chiến trường đã không chỉ có sự phơi phới. Anh là chiến sĩ rồi Tiểu đội trưởng Tiểu đội 4, Trung đội 2, Đại đội 11, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 48, Trung đoàn Thép của Sư đoàn 320B tử thủ ở Thành cổ Quảng Trị và Mặt trận Cửa Việt. Đường hành quân, chủ yếu đi bộ từ Bắc vào Nam đã được anh nhớ lại: “Cả lũ đi mò trong đêm. Tôi bị ngã vào vũng nước, ướt sạch, quai dép bị đứt, đành phải đi đất. Hình như bị lạc rồi, ánh hỏa châu chập chờn khắp nơi. Đường bờ ruộng trơn như đổ mỡ, tôi nghiến răng dùng hết sức bấm ngón chân xuống đất mà vẫn ngã. Mỗi bước đi là một bước ngã. Súng ống đồ đạc quật oành oạch, quần áo bẩn thỉu như trâu vấy. Nhiều lúc mệt quá, tôi cứ chống hai tay ngồi phệt dưới bùn mà nuốt nước mắt: cuộc đời chưa bao giờ bị cực khổ như thế này"! Cuộc sống ở chiến trường có những điều mà bây giờ lớp trẻ không thể hiểu nổi: “Sau bữa trưa chỉ có cơm với muối chúng tôi rửa bát bằng cách sục ca nhôm vào cát rồi chùi. Ở đây thì lấy đâu ra nước mà rửa bát. Có nước ở hố bom cách đó vài chục mét, nhưng ra lấy lại sợ bị pháo kích”...
Quảng Trị năm 1972 là đất của bom pháo và chết chóc. Đụng vào đâu cũng thấy xác chết, cả ta lẫn địch. Tiểu đoàn 3 của anh đã hai lần bị xóa sổ trong vòng ba tháng. Chỉ có tinh thần chiến đấu kiên cường của người chiến sĩ là không chết. Đây là một đoạn viết về những người lính trẻ: “Từ cửa hãm đối diện, Lâm Thành xả một tràng AK hạ gục tên địch vừa bắn Chí Thành. Nhưng lúc này bốn bề đều có địch. Hai chiến sĩ trẻ của C11, là Lâm Thành và Tường “Hải Phòng”, đã dựa lưng vào nhau, chĩa súng AK ra hai phía bắn như điên. Mặc cho máu đang ròng chảy trên mặt một người và máu thấm đẫm vạt sườn người kia, hai anh vẫn bắn không ngừng, bắn mãi... Cách đó khoảng 100m, Tiểu đội trưởng Quế "Khương Trung” mang khẩu DKZ82 ra định lắp vào giá súng, nhưng không kịp. Thấy xe tăng địch đang rầm rầm xông đến, Quế hô chiến sĩ Quỳnh “Thái Bình” đem đạn ra ngay, nạp vào súng. Rồi không cần giá súng, Quế vác nòng khẩu DKZ82 lên vai, nhằm thẳng chiếc M48 đang chạy xế trước mặt bóp cò. Một quầng lửa da cam cùng tiếng nổ chói óc vang lên, chiếc xe tăng bốc cháy ngùn ngụt, không một tên địch nào sống sót”...
Mọi sự thật của chiến tranh đều được phơi bày một cách trần trụi. Cả dũng cảm và hèn nhát. Không ít cán bộ, chiến sĩ đã thoái lui, không đập bệnh cũng đảo ngũ. Nhưng trên tất cả là bản anh hùng ca của tuổi trẻ từ bộ đội chủ lực đến giao liên, du kích. Tác giả, trong hoàn cảnh cụ thể của mình đã có những trang viết xúc động, rất đáng tự hào về tuổi trẻ Hà Nội trong những ngày kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó có chính tác giả.
Văn học gần đây có khuynh hướng thiên về ký sự, mô tả sự thật như nó vốn có. Sự thật cuộc chiến đấu Quảng Trị năm 1972 hào hùng và tiêu biểu đến nỗi, không cần tới hư cấu, và bởi không cần đến hư cấu nên lay động sâu xa tới người đọc. Cuốn sách này của Nguyễn Quang Vinh không chỉ có giá trị lịch sử mà còn góp phần khẳng định một khuynh hướng mới có nhiều triển vọng trong đời sống văn học hiện nay.
Nguyễn Quang Vinh kể lại những ngày tháng của các anh ở Quảng Trị không để làm văn chương; mà là nén hương lòng tưởng niệm và tri ân những đồng đội đã hy sinh vì Tổ quốc:
Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai.
Khép lại trang cuối cùng của cuốn sách; tôi hết sức khâm phục, biết ơn và càng thương nhớ các anh chị đã chiến đấu và hy sinh ở Quảng Trị; trong đó hai người anh của tôi là Liệt sĩ Nguyễn Đức Thúy và Liệt sĩ Nguyễn Sĩ Đường.
Tôi nhận thấy ở Nguyễn Quang Vinh một nhà văn - chiến sĩ. Dù anh không viết gì nữa, tôi tin anh đã có một chỗ đứng trên văn đàn.
Cuốn sách “Quảng Trị 1972" chắc chắn sẽ ghi được dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc.
Hồ Gươm, 21-3-2017 Nguyễn Sĩ Đại